Lịch sử Chủ_nghĩa_hoài_nghi

Phương Tây cổ

Truyền thống phương Tây về chủ nghĩa hoài nghi một cách có hệ thống có nguồn gốc ít nhất từ thời Pyrrho xứ Elis. Ông bận tâm đến những bất đồng ý kiến trong tất cả các trường phái triết học thời ông, trong đó có cả triết học khắc kỷ (Stoicism) của chính ông. Người ta kể rằng, ông đã trở nên rất bối rối vì mình không thể quyết định được một cách hợp lý trường phái triết học nào là đúng đắn. Khi tự thừa nhận điều này, cuối cùng ông đã có được sự bình yên nội tâm mà ông đang tìm kiếm.

Từ một quan điểm khắc kỷ, Pyrrho đã tìm thấy bình an bằng cách thừa nhận sự thiếu hiểu biết của mình và có vẻ như từ bỏ tiêu chí mà tri thức được thu thập theo đó, đó là lý tính lôgic. Sự thiếu hiểu biết của Pyrrho không phải sự thiếu hiểu biết của trẻ em hay gia súc: nó là một "sự hiểu biết tri thức", người ta đạt đến nó qua sự giải thích và phơi bày sự thiếu hụt của lý luận lôgic. Trường phái tư tưởng này ban đầu được phát triển để đối lập với cái được xem là chủ nghĩa giáo điều, hay các khẳng định thiếu cơ sở, của những người theo chủ nghĩa khắc kỷ. Những người theo thuyết của Pyrrho phân biệt rõ ràng giữa "là" và "có bề ngoài là" và giữa sự nhận thức về một hiện tượng và chính hiện tượng đó.

Thực ra, Pyrrho và trường phái của ông không hoài nghi. Mục đích của họ là αταραξια (sự bình yên trong tâm thức), và so sánh giữa các triết lý giáo điều để làm suy giảm niềm tin vào toàn bộ hệ thống triết học. Ý tưởng là để tạo ra trong sinh viên một trạng thái thù nghịch với cái mà những người theo thuyết Pyrrho cho là những điều lảm nhảm độc đoán và không hợp lý. Do không ai có thể quan sát hay trải nghiệm luật nhân quả, thế giới bên ngoài, mục đích tối cao của vũ trụ hay sự sống, công lý, sự thần thánh, linh hồn, v.v.. họ tuyên bố rằng không nhất thiết phải tin vào những thứ đó. Những người theo thuyết Pyrrho chỉ ra rằng, mặc dù khẳng định về những khái niệm đó là cần thiết, nhưng những người không biết về chúng vẫn sống ổn thỏa trước khi được học về chúng. Họ còn ghi nhận rằng vì mục đích thực nghiệm, khoa học không đòi hỏi niềm tin, và đức tin vào các thực tại có thể nhận thức được bằng trí óc không phải các quy ước giáo điều. Đối với mỗi khái niệm trực quan, (ví dụ sự tồn tại của một thế giới bên ngoài), những người Pyrrho trích dẫn một quan niệm đối lập để phủ định nó. Họ bổ sung rằng sự đồng thuận không hàm ý chân lý hay thậm chí cả xác suất. Ví dụ, nếu Trái Đất hình tròn thì nó sẽ mãi là hình tròn kể cả khi tất cả mọi người tin rằng nó phẳng.

Mục tiêu của phê phán này, cái mà những người theo Pyrrho nhận ra rằng sau này nó sẽ phá vỡ thậm chí cả phương pháp của chính họ, là để ươm mầm cho một sự bất tín đối với mọi tư tưởng lớn. Họ trông đợi rằng triết học sẽ sụp đổ vào trong chính nó. Việc những người theo thuyết của Pyrrho đã tiến bao xa theo hướng này còn là một vấn đề đang được tranh cãi. Những người Pyrrhonist thừa nhận một niềm tin vào những thứ bề ngoài, ví dụ như nóng và lạnh, buồn và vui. Họ nói rằng, không thể phủ nhận rằng một người "có vẻ" đang bị đau hoặc "có vẻ" đang chạm vào một mẩu gỗ. Do đó, thế giới của họ hoàn toàn là thế giới hiện tượng luận (phenomenological). Về lý tưởng, một người Pyrrhonist có thể sống dễ chịu không kém một người giáo điều chủ nghĩa, ngoài ra còn thêm một điểm tốt là họ không lo nghĩ gì về chân lý và sự lừa dối, về đúng và sai, về ý Chúa, v.v..

Các nhà tư tưởng sau này đã lấy cách tiếp cận của Pyrrho và mở rộng nó thành chủ nghĩa hoài nghi hiện đại.

Phương Đông cổ

Phật giáo đem lại một nguồn dồi dào cho chủ nghĩa hoài nghi mà nó ít được biết đến tại phương Tây. Tuy nhiên, nó có khác biệt lớn đối với chủ nghĩa hoài nghi triết học phương Tây tại một số điểm:

  • Người ta nói rằng, khi giác ngộ, Phật đã chạm xuống mặt đất để nó có thể chứng kiến sự giác ngộ của Phật. Theo cách đó, Phật giáo không cho rằng tri thức là không thể đạt được.
  • So với chủ nghĩa hoài nghi triết học phương Tây, Phật giáo ít nhấn mạnh vào chân lý và tri thức hơn. Thay vào đó, nó nhấn mạnh mục đích của Bồ đề, cái tuy thường được dịch là "giác ngộ" nhưng không hàm ý chân lý hay tri thức.
  • Ít nhất trong các tác phẩm của Long Thụ - những gì đã tạo nên cốt lõi của Trung quán tụng, khía cạnh phản-bản chất luận (anti-essentialist) của Phật giáo đã làm cho nó trở nên phản-triết học. Trong thái độ đó, chân lý chỉ tồn tại bên trong các ngữ cảnh khẳng định nó. Do đó, ví dụ, tuy các trò chơi hợp tác như các đóng góp của khoa học cho công nghệ có thể có thu được lợi ích, nhưng về mức độ "đúng đắn một cách bản chất", chúng không hơn không kém các quan niệm và tư tưởng của những người Azande, một dân tộc sống ở phía bắc Trung Phi, những người luôn tư duy theo kiểu thần bí.